Làm Giúp em: Vẻ Đẹp Của Hình Tượng Người Nông Dân Nghĩa Sĩ Trong Bài "Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc"

cảm Ơn
le hoai phuong
le hoai phuong
Trả lời 15 năm trước
Nhà phê bình Hoài Thanh, trong bài viết Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - một trong những bài văn hay nhất của chúng ta đã công nhận là từ trước khi có tác phẩm này, trong văn chương chưa hề có một cái nhìn yêu thương và kính phục như vậy đối với người nông dân: Nhớ linh xưa: cui cút làm ăn - toan lo nghèo khó”, và ông viết: "Bao nhiêu yêu thương trong hai từ cui cút ấy”! Cũng xin nói "cui cút" là từ ngữ "đặc Nam Bộ" nhưng thực ra ai cũng hiểu, và sách giáo khoa Văn học lớp 11 cũng đã chú thích khá rõ: "Cui cút làm ăn: có nghĩa là làm ăn lẻ loi, thầm lặng một cách tội nghiệp". Thực ra, trường ngữ nghĩa của "cui cút" còn rộng và sâu hơn "tội nghiệp" rất nhiều. Chỉ trong một câu văn 8 chữ: “cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó" đã hiện lên đầy đủ một vòng đời không lối thoát của người nông dân Việt, người "dân ấp dân lân" Nam Bộ. Bắt đầu bằng cui cút, vật lộn làm ăn, toan lo để cuối cùng kết thúc trong nghèo khó. Cứ ngỡ họ sẽ mãi mãi cam chịu như thế: Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ, và đúng như cụ Đồ Chiểu đã tả: Việc cuốc việc cày việc bừa việc cấy tay vốn quen làm; tập khiên tập súng tập mác tập cờ mắt chưa từng ngó. Họ thật thà và ngây thơ lắm, đến nỗi: Trông tin quan như trời hạn trông mưa, nhưng họ cũng dữ dằn lắm đó nghe: Ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ. Đừng đùa với họ, nhất là đừng lừa họ, bịp họ! Đọc văn tế phải đặc biệt chú ý đến phép đối ngẫu, cả đại đối và tiểu đối. Người ta nói dường như từ văn tế đến thơ văn xuôi là một khoảng cách khá gần, đúng là như thế. "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" trong khi tuân thủ chặt chẽ lề luật của một bài văn tế thông thường, đã vượt lên thành một tác phẩm văn học độc đáo có một không hai. Đây là lần đầu tiên trong văn học thành văn Việt Nam xuất hiện hình ảnh người nông dân - chiến sĩ, người cố nông, bần nông - nghĩa sĩ. Và Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ Việt đầu tiên công khai vẽ lên và ngợi ca hình ảnh người anh hùng Chẳng qua là dân ấp dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ. Giọng thơ bi thiết, hào sảng, dữ dội, dịu dàng, khi đôn hậu lúc quật cường ấy chính là giọng điệu chủ của văn học viết về chiến tranh, cuộc chiến tranh bắt đầu từ người dân, người lính, những nghĩa sĩ vô danh trùng trùng điệp điệp đã làm nên đất nước này và thề gìn giữ đất nước này. Xin hãy đọc đoạn văn viết về thân phận con người trong chiến tranh này và so sánh: Chùa Tôn Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm; đồn Lang sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ - Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ. Có thể coi đó là những câu thơ hay câu văn viết về chiến tranh thực nhất và hay nhất mọi thời đại. Nếu không phải là "nhà thơ của nhân dân", nếu không sống đến tận cùng tâm cảm niềm đau nỗi khổ của nhân dân thì không bao giờ viết được một áng văn như Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Đúng, cụ Đồ Chiểu chỉ là một nhà thơ mù, một "người hát rong của nhân dân". Sinh thời cụ cũng không có chức tước gì, cũng chẳng được (hoặc không muốn nhận) đồng nhuận bút nào từ những tác phẩm của mình, nhưng một số tác phẩm cụ để lại mà tiêu biểu nhất là "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" đã làm giàu cho nền văn học Việt Nam ở vào thời điểm thử thách khắc nghiệt nhất cho văn học và cho cả lịch sử đất nước. Chớ động vào những ngôi đền thiêng do chính nhân dân dựng lên! Cụ Đồ Chiểu "thảo dân" và Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là ngôi đền thật, ngôi đền thiêng của văn học chúng ta. Hãy cẩn trọng khi chạm đến nó.