Tìm hiểu về bệnh tiểu đường?

Năm nay tôi 38 tuổi .Cao 1m7 và nặng 65kg.Tôi mới phát hiện mình bị bệnh tiểu đường (TD )vào đầu năm nay Buổi sáng tôi đo thì kết quả luôn luôn nhỏ hơn < 110 .Nhưng sau khi ăn thì tôi thấy trong từ 30' đến 1h đầu thì đường huyết ( DH ) giao động từ 150 cho đến trên 200 , nhiều nhất là 220 .Còn đến sau 2h thì DH chỉ còn là nhỏ hơn 150 .Tất cả những kết quả trên là tôi ko sử dụng thuốc uống ( tôi ko uống thuốc vì ko muốn bị lệ thuộc vào thuốc .Âu đó cũng là tâm lý của hầu hết mọi người ) Mong những ai am hiểu xin tư vấn cho tôi .Chân thành cảm ơn TB: Tôi cũng đã ăn uống kiêng khem và tập thể dục đều đặn
tun cua di
tun cua di
Trả lời 14 năm trước
Chỉ số đường huyết : Trước bữa ăn: 90-130mg/dl (5,0- 7,2mmol/l). Sau bữa ăn 1-2 giờ: nhỏ hơn 180mg/dl (10mmol/l). Trước lúc đi ngủ: 110-150mg/dl (6,0-8,3mmol/l). với chỉ số của em thì chỉ cần hạn chế lượng mỡ , đường nạp mỗi ngày , có thể dùng thêm khổ qua ,
pq
pq
Trả lời 14 năm trước
Có người mách ăn hạnh nhân trắng 1 phần, ăn hạnh nhân nâu (đen) 2 phần, ăn nhiều ít tùy kinh nghịệm đường trong máu lên hay xuống sau khi ăn, thí dụ ngày một muỗng trắng hai muỗng nâu (đen). cũng tùy tạng người, có người do đó đã bớt bệnh, có người chưa thấy bớt nhiềù, cứ thử, không hại gì cả mà lại rẻ. đến tiệm thuốc bắc người ta sẽ chì cho hai thứ hạnnh nhân. một môn thuốc khác cũng tốt, ăn ổi nhiều hay uống lá ổi như trà. nhưng có người nói hạnh nhân hiệu quả hơn. có bệnh thì vái tứ phương. hai bài thuốc trên lại dễ kiếm. lý thuyết tây y nói bệnh tiểu đường cả đời không bỏ thuốc được không đúng hẳn. tuy nhiên khi tiêm insuline rồi thì khó chưã. những lời mách trên là cho bệnh tiểu đường loại 2, không bẩm sinh thôi.
Bùi Hà
Bùi Hà
Trả lời 14 năm trước
Nhiều người bị tiểu đường nhưng có chế độ ăn uống phù hợp kết hợp với sinh hoạt tập thể dục điều độ vẫn giữ được phong độ tốt. Tuy nhiên, anh còn rất trẻ mà phải kiêng khem quá nhiều thì cũng rất khó chịu và cũng vì đó mà cơ thể bị thiếu dinh dưỡng. Những biến chứng từ bệnh tiểu đường gây ra, nếu không kiểm soát được sẽ rất nguy hiểm. Tôi biết rất nhiều người, ở nhièu lứ tuổi, mặc bệnh này, cả tuýp 1-2. Có những người rất nặng, đã bị biến chứng. Nhưng hiện nay họ đã hoàn toàn khoẻ, thậm chí không dùng thuốc. Nếu anh quan tâm, gọi cho tôi để được tư vấn. Tôi ở HN. 0983. 156. 566
nguyen thi linh
nguyen thi linh
Trả lời 14 năm trước
Tôi biết một người có thể giúp bạn giải quyết được nguyên nhân gây lên bệnh tiểu đường. Nếu bạn quan tâm hãy liên hệ 0973883887 để nhận được sự giúp đỡ. Chúc bạn sớm khỏe mạnh!
Ngô Hhuy
Ngô Hhuy
Trả lời 14 năm trước
Để chắc ăn các bạn ghé vào website chuyên về đái tháo đường http://daithaoduong.net.vn Bạn có quan điểm thật là sai lầm, trong điều trị đái tháo đường thì những người gọi là phụ thuộc insulin thì đó là những người mà cơ thể không sản xuất được insulin thì phải sử dụng bắt buộc và chủ yếu ở người đái tháo đường type 1, còn ở type 2 thì k phụ thuộc insulin mà chỉ sử dụng thuốc để duy trì lượng insulin ổn định, cái phụ thuộc này khác với sự phụ thuộc vào thuốc kháng sinh, nếu dùng liều càng cao thì ngày càng phải sử dụng liều cao hơn vì vsv kháng thuốc, còn trong đái tháo đường k liên quan đến kháng thuốc! Thân ái!
hao
hao
Trả lời 10 năm trước

Bệnh tiểu đường là một trong những nguyên nhân chính của nhiều bệnh hiểm nghèo, điển hình là bệnh tim mạch vành, tai biến mạch máu não, mù mắt, suy thận, liệt dương, hoại thư, v.v.

Dịch tễ học

Ở Anh khoảng 1,6 triệu người bị ĐTĐ[1]. Tại Hoa Kỳ, số người bị ĐTĐ tăng từ 5,3% năm 1997 lên 6,5% năm 2003 và tiếp tục tăng rất nhanh. Người tuổi trên 65 bị ĐTĐ gấp hai lần người tuổi 45–54.

Tại Việt Nam, trong 4 thành phố lớn Hà Nội, Huế, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, tỷ lệ bệnh tiểu đường là 4%, riêng quận Hoàn Kiếm (Hà Nội) lên tới 7%. Phần lớn người bệnh phát hiện và điều trị muộn, hệ thống dự phòng, phát hiện bệnh sớm nhưng chưa hoàn thiện.

Vì vậy, mỗi năm có trên 70% bệnh nhân không được phát hiện và điều trị. Tỷ lệ mang bệnh tiểu đường ở lứa tuổi 30-64 là 2,7%, vùng đồng bằng, ven biển 2,2%, miền núi 2,1%. Nếu không được phòng chống và cứu chữa kịp thời, bệnh dễ biến chứng, 44% người bệnh đái tháo đường bị biến chứng thần kinh, 71% biến chứng về thận, 8% bị biến chứng mắt.

Hiện trên thế giới ước lượng có hơn 190 triệu người mắc bệnh tiểu đường và số này tiếp tục tăng lên. Ước tính đến năm 2010, trên thế giới có 221 triệu người mắc bệnh tiểu đường. Năm 2025 sẽ lên tới 330 triệu người (gần 6% dân số toàn cầu). Tỷ lệ bệnh tăng lên ở các nước phát triển là 42%, nhưng ở các nước đang phát triển (như Việt Nam) sẽ là 170%.

Phân loại

Bệnh tiểu đường có hai thể bệnh chính: Bệnh tiểu đường loại 1 do tụy tạng không tiết insulin, và loại 2 do tiết giảm insulin và đề kháng insulin.

Loại 1 (Typ 1)

Khoảng 5-10% tổng số bệnh nhân Bệnh tiểu đường thuộc loại 1, phần lớn xảy ra ở trẻ em và người trẻ tuổi (<30T). Các triệu chứng thường khởi phát đột ngột và tiến triển nhanh nếu không điều trị. Giai đoạn toàn phát có tình trạng thiếu insulin tuyệt đối gây tăng đường huyết và nhiễm Ceton.

Những triệu chứng điển hình của Bệnh tiểu đường loại 1 là tiểu nhiều, uống nhiều, đôi khi ăn nhiều, mờ mắt, dị cảm và sụt cân, trẻ em chậm phát triển và dễ bị nhiễm trùng.

Loại 2 (Typ 2)

Bệnh tiểu đường loại 2 chiếm khoảng 90-95% trong tổng số bệnh nhân bệnh tiểu đường, thường gặp ở lứa tuổi trên 40, nhưng gần đây xuất hiện ngày càng nhiều ở lứa tuổi 30, thậm chí cả lứa tuổi thanh thiếu niên.

Bệnh nhân thường ít có triệu chứng và thường chỉ được phát hiện bởi các triệu chứng của biến chứng, hoặc chỉ được phát hiện tình cờ khi đi xét nghiệm máu trước khi mổ hoặc khi có biến chứng như nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não; khi bị nhiễm trùng da kéo dài; bệnh nhân nữ hay bị ngứa vùng do nhiễm nấm âm hộ; bệnh nhân nam bị liệt dương.

Bệnh tiểu đường do thai nghén

Tỷ lệ bệnh tiểu đường trong thai kỳ chiếm 3-5% số thai nghén; phát hiện lần đầu tiên trong thai kỳ.

Chẩn đoán

Bệnh tiểu đường là một bệnh không thuần nhất, có nhiều thể lâm sàng nên triệu chứng. Bệnh tiểu đường loại 2 có các triệu chứng diễn ra êm dịu hơn loại 1.

Triệu chứng

Các triệu chứng thường thấy là tiểu nhiều, ăn nhiều, uống nhiều, sụt cân nhanh là các triệu chứng thấy ở cả hai loại.

Lượng nước tiểu thường từ 3-4 lít hoặc hơn trong 24 giờ, nước trong, khi khô thường để lại vết bẩn hoặc mãng trắng.

Tiểu dầm ban đêm do đa niệu có thể là dấu hiệu khởi phát của đái tháo đường ở trẻ nhỏ.

Với bệnh nhân đái tháo đường loại 2 thường không có bất kỳ triệu chứng nào ở giai đoạn đầu và vì vậy bệnh thường chẩn đoán muộn khoảng 7-10 năm (chỉ có cách kiểm tra đường máu cho phép chẩn đoán được ở giai đoạn này).

Xét nghiệm

Chẩn đoán ĐTĐ bằng định lượng đường máu huyết tương:

ĐTĐ: đường máu lúc đói ≥126mg/dl (≥7 mmol/l) thử ít nhất 2 lần liên tiếp.

Đường máu sau ăn hoặc bất kỳ ≥200mg/dl (≥11,1mmo;/l).

Người có mức đường máu lúc đói từ 5,6-6,9 mmol/l được gọi là những người có ‘rối loạn dung nạp đường khi đói’.

Những người này tuy chưa được xếp vào nhóm bệnh nhân ĐTĐ, nhưng cũng không được coi là ‘bình thường’ vì theo thời gian, rất nhiều người người ‘rối loạn dung nạp đường khi đói’ sẽ tiến triển thành ĐTĐ thực sự nếu không có lối sống tốt.

Mặt khác, người ta cũng ghi nhận rằng những người có ‘rối loạn dung nạp đường khi đói’ bị gia tăng khả năng mắc các bệnh về tim mạch, đột quị hơn những người có mức đường máu <5,5mmol/l.

Đôi khi các bác sỹ muốn chẩn đoán sớm bệnh ĐTĐ hơn nữa bằng cách cho uống đường glucose làm bộc lộ những trường hợp ĐTĐ nhẹ mà thử máu theo cách thông thường không đủ tin cậy để chẩn đoán. Cách đó gọi là ‘test dung nạp glucose bằng đường uống’.

Test này được thực hiện như sau:

- Điều kiện: ăn 3 ngày liền đủ lượng carbonhydrat (>200g/ngày), không dùng thuốc làm tăng đường máu, đường máu lúc đói bình thường, không bị stress.

- Thực hiện: nhịn đói 12 giờ, uống 75 gam đường glucose trong 250ml nước (không nóng - không lạnh). Định lượng đường máu sau 2 giờ.

- Đọc kết quả: ‘Test dung nạp glucose đường uống’:

Nếu đường máu 2 giờ sau uống đường glucose ≥11,1mmol/l: chẩn đoán ĐTĐ; nếu đường máu 2 giờ sau uống đường glucose ≥7,8 mmol/l nhưng < 11,1 mmol/l: những người này được xếp loại giảm dung nạp đường glucose. Người mắc giảm dung nạp đường glucose không những có nguy cơ cao tiến triển thành ĐTĐ sau này, mà còn tăng nguy cơ mắc các bệnh tim-mạch như tăng huyết áp, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não.

- Định lượng đường niệu: chỉ có giá trị rất hãn hữu trong việc theo dõi đối với bản thân bệnh nhân ngoại trú. Không dùng để chẩn đoán bệnh.

- Các xét nghiệm bổ sung: sau khi được chẩn đoán xác định và làm những xét nghiệm theo dõi thường kỳ (1-2lần/năm) để thăm dò các biến chứng mạn tính và để theo dõi điều trị:

- Khám lâm sàng: lưu ý kiểm tra cân nặng, huyết áp, bắt mạch ngoại biên và so sánh nhiệt độ da, khám bàn chân, khám thần kinh bao gồm thăm dò cảm giác sâu bằng âm thoa. Khám mắt: phát hiện và đánh giá tiến triển bệnh lý võng mạc.

- Xét nghiệm: đặc biệt lưu ý creatinin, mỡ máu, microalbumin niệu (bình thường < 30 mg/ngày) hoặc định lượng protein niệu. Đo điện tim nhằm phát hiện sớm các biểu hiện thiếu máu cơ tim. Soi đáy mắt..

- Định lượng HbA1 hoặc HbA1c: đánh giá hồi cứu tình trạng đường máu 2-3 tháng gần đây. Đường máu cân bằng tốt nếu HbA1c < 6,5%.

Trong một số tình huống (không phải là xét nghiệm thường qui):

Fructosamin: cho biết đường máu trung bình 2 tuần gần đây, có nhiều lợi ích trong trường hợp người mắc ĐTĐ đang mang thai. Nếu đường máu cân bằng tốt, kết quả < 285 mmol/l.

Peptid C (một phần của pro-insulin): cho phép đánh giá chức năng tế bào bêta tụy.

Điều trị

Lối sống và thái độ ăn uống

Chế độ ăn tốt cho bất kỳ người ĐTĐ cũng cần thoả mãn các yếu tố cơ bản sau:

- Đủ chất Đạm - Béo - Bột - Đường - Vitamin - Muối khoáng - Nước với khối lượng hợp lý.

- Không làm tăng đường máu nhiều sau ăn.

- Không làm hạ đường máu lúc xa bữa ăn.

- Duy trì được hoạt động thể lực bình thường hàng ngày.

- Duy trì được cân nặng ở mức cân nặng lý tưởng hoặc giảm cân đến mức hợp lý.

- Không làm tăng các yếu tố nguy cơ như rối loạn mỡ máu, tăng huyết áp, suy thận ...

- Phù hợp tập quán ăn uống của địa dư, dân tộc của bản thân và gia đình.

- Đơn giản và không quá đắt tiền.

- Không nên thay đổi quá nhanh và nhiều cơ cấu cũng như là khối lượng của các bữa ăn.

Thuốc uống

Insulin (dùng cho dạng typ1)

Căn cứ vào tác dụng, giới chuyên môn chia ra 03 nhóm:

- Insulin tác dụng nhanh: gồm Insulin hydrochlorid, nhũ dịch Insulin-kẽm

- Insukin tác dụng trung bình: Isophan Insulin, Lente Insulin

- Insulin tác dụng chậm: Insulin Protamin kẽm, Insulin kẽm tác dụng chậm

Insulin được chỉ định dùng cho bệnh nhân đái tháo đường thuộc Typ1, nó chỉ dùng cho bệnh nhân đái tháo đường typ2 khi đã thay đổi chế độ ăn, luyện tập và dùng các thuốc điều trị đái tháo đường tổng hợp mà không hiệu quả

- Phản ứng phụ của Insulin: Dị ứng (sau khi tiêm lần đầu hoặc nhiều lần tiêm), hạ Glucose máu (thường gặp khi tiêm quá liều), Phản ứng tại chỗ tiêm (ngứa, đau, cứng vùng tiêm)

Thuốc dùng cho dạng typ2

Các dẫn xuất của Sulfonyl ure, chia làm 02 nhóm:

- Nhóm 1: có tác dụng yếu, gồm - Tolbutamid, Acetohexamid, Tolazamid, Clopropamid

- Nhóm 2: có tác dụng mạnh hơn, gồm - Glibenclamid, Glipizid, Gliclazid

Các nhóm trên có tác dụng hạ đường huyết do ngăn cản tế bào tuyến tụy tạo ra Glucagon và kích thích tế bào Beta ở tuy tiết ra Insulin

- Phản ứng phụ khu dùng: hạ Glucose máu,dị ứng, rối loạn tiêu hóa, tan máu, mất bạch cầu hạt.