Hỏi về thuyết minh về các vấn đề xã hội?

[red]Thông báo từ ban Quản Trị website: Nội dung câu hỏi của bạn đã được edit lại do câu hỏi của bạn chưa rõ ràng. Bạn nên chú ý vào lần sau nhé![/red]
Vespa
Vespa
Trả lời 16 năm trước
Đây là một bài thuyết minh về Tham Nhũng bạn tham khảo xem có giúp gì được cho bạn không nhé! Sự phân tích về những xấu xa, tệ hại của tham nhũng cũng đã khá nhiều, khá đầy đủ. Những chữ dùng như «Quốc nạn», «giặc nội xâm» đã thật chính xác và cũng là tột cùng rồi. Cũng đã có rất nhiều những lời lên án, những kêu gọi, những nghị quyết , những quyết định , những chỉ thị, những nhắc nhở; lại còn có cả những tố chức và các cuộc vận động chống tham nhũng nữa. Không phải chỉ có thế, còn có cả những vụ kỷ luật, những cuộc trừng phạt, nhất là những vụ án, không ít án tử hình và chung thân, những bắt buộc bồi thường.. .. những việc đó đã có tiếng vang ở trong nước và ngoài nước. Nhưng cho đến nay thì hình như dư luận xã hội cũng đã chán ngán, không còn muốn nói nhiều đến nó nữa. Nạn tham nhũng thì vẫn chưa có dấu hiệu nào tỏ ra đã bị đẩy lùi. Không khí xã hội vẫn chưa trút bỏ được nỗi «day dứt» và «nhức nhối» về nạn tham nhũng. Những tố cáo gay gắt đối với những nhân vật tham nhũng vẫn bị dìm vào trong im lặng. Việc xử lý vẫn cố giữ thế cân bằng : vừa trừng phạt kẻ tham nhũng, lại vừa trừng phạt và cảnh cáo những người tố cáo, làm cho sự tố cáo một hồi rộ lên, rồi lại thấy yếu dần đi. Tình trạng và trình độ tham nhũng vẫn y nguyên như cũ. 2 -- Sở dĩ tham nhũng làm cho toàn xã hội bực bội và căm ghét là vì nó có cả Tham và Nhũng. Tham là sự ăn cắp và ăn cướp trong đó chủ yếu là cướp ngày (cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan) là các quan ăn cắp và ăn cướp lấy bao nhiêu của cải của nhà nước, mà của nhà nước tức là của dân đóng góp vào. Cải thiện một mức lương cho những người ăn lương, ngân sách phải chi hơn 5.000 tỷ, mà một vụ tham nhũng ngân sách nhà nước cũng tổn thất hàng chục nghìn tỷ. Thế thì cái món «cướp ngày» rất là ghê gớm, không thể không căm ghét. Vì biết bao nhiêu đóng góp của dân cho đủ một vụ tham ? ? ? Tham thì như thế, nhưng còn Nhũng cái nhũng nó lại càng rộng rãi, càng đụng đến cuộc sống hàng ngày của mỗi người trong nhân dân. Đó là sự phiền hà, ngăn trở, dối trá, lừa lọc, hành hạ của các người có chút quyền lực của các cơ quan có quyền lực! Xin phép làm một việc gì, xin chứng nhận một điều gì, xin việc làm, xin đi học, xin chữa bệnh, xin ra nước ngoài.. .. bất cứ việc gì cũng đều phải có tiền. Trong xã hội đã có một sự công nhận hiển nhiên, muốn làm việc gì thì việc «đầu tiên» là phải có tiền, mỗi việc đã có thang giá (bareme) tiền được truyền khẩu nhau rất rõ ràng và công khai, một công việc muốn được việc càng bị đẩy sang nhiều khâu để được nhiều người được ăn tiền thì càng tốt và mới có hiệu quả. Rồi có những khâu công việc được sáng tạo ra thêm để cố kiếm tiền lời : như trường học quy định học sinh phải may đồng phục theo đúng kiểu và mẫu vải của nhà trường. Vì nhà trường có thợ may và vải đúng mẫu bán; chữa bệnh phải mua thuốc chỗ người bán được giới thiệu v.v.. .. Chế độ ta đầy ưu việt trong các vấn đề xã hội là giáo dục và y tế thì chính trong các khâu giải quyết công việc của chữa bệnh và đi học lại bị hành hạ hơn cả. Rồi đến việc quản lý thị trường, thu nộp thuế, việc môi trường mỹ quan, yêu cầu xanh, sạch, đẹp, trật tự đường phố, trật tự giao thông. Những người dân nghèo là những người bị nhiều hăm doạ và hành hạ hơn ai hết. Còn một nạn nhũng phức tạp nữa là các người, các cơ quan nắm pháp luật lại cố tình làm sai pháp luật (tiêu biểu như vụ án Dương Thị Nga ở quận Hoàn Kiếm tháng 11 --1999). Hoặc những người có quyền lực vì dốt hoặc vì những lẽ khác nên có những quyết định sai hoặc bất công, rồi cố tình đun đẩy cho người khác, gây nên những oan khuất mà nhiều người bị oan đi kêu rêu hàng chục năm ròng vẫn không xong. Một cuộc sống luôn bị hăm doạ và hành hạ thì làm sao gọi là một cuộc sống yên vui cho được. Cho nên bên cạnh cái nạn Tham thì cái nạn Nhũng làm cho ai nấy đều phải day dứt và nhức nhối. II. Tại sao có tham nhũng và chống tham nhũng lại khó ? Đến đây cần phải cùng nhau lý giải một điều quan trọng này, rồi sẽ bàn tiếp sau. Tại sao lại có tham nhũng ? Và tại sao tham nhũng lại cứ phát triển, tại sao chống tham nhũng không có hiệu lực, càng chống nó lại càng tồn tại và phát triển ? ? ? Mấy cái tại sao này có liên quan chặt chẽ với nhau ! -- Có phải vì có một số cán bộ, đảng viên thoái hoá biến chất không ? ? ? -- Có phải vì kẻ địch âm mưu diễn biến hoà bình có các thủ đoạn phá hoại ta không ? -- Có phải cơ chế thị trường có mặt trái của nó mà ta không khống chế được để nó tác hại không ? ? ? -- Có phải vì thu nhập chính thức của cán bộ công nhân viên nhà nước quá thấp không đủ sống, nên mọi người phải xoay sở ? Có thể một số «nhà lý luận» có lập trường gang thép thuyết minh về các nguyên nhân nói trên một cách hùng hồn, có cả những chứng minh cụ thể. Nhưng cuộc sống thực tế lại chứng minh một cách rõ rệt là mấy câu trả lời đó là không đúng. Con quỷ tham nhũng nó cứ như Phạm Nhan trong truyền thuyết cổ tích : chặt đầu này nó lại mọc đầu khác. Trong khi ta tìm những cán bộ tài đức vẹn toàn thì hết sức khó khăn và hiếm hoi. Mỗi cái «có phải» kể trên đều có một chút tác động cả, nhưng không thể là nguồn gốc sâu xa của nạn tham nhũng. Tai hoạ tham nhũng có những nguyên nhân cụ thể, trước mắt, nhưng nó có nguồn gốc sâu xa hơn, đó là nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Đại hội VI của Đảng Cộng Sản năm 1986 có nêu lên một ý kiến là nguyên nhân của những nguyên nhân các khuyết điểm là công tác tổ chức. ý kiến đó được các bậc lão thành và rất nhiều người tán thưởng. Nay phân tích tai hoạ tham nhũng, nếu không tìm ra nguồn gốc, tức là nguyên nhân của mọi nguyên nhân thì không thể đề ra biện pháp chống có hiệu quả được. Để thấu đáo vấn đề này, phải có những công cuộc phân tích kỹ và sâu các vấn đề lịch sử, các vấn đề học thuyết triết học, các vấn đề chính trị, xã hội học và tâm lý học. Ở đây, một bài phát biểu ý kiến nhỏ không làm được việc to lớn đó. Ở đây chỉ nêu lên một ý kiến khái quát từ thực tế cuộc sống từ những hiện tượng hiển nhiên mọi người đều biết và từ những ý kiến nghe được nhiều từ trong nhân dân. Một nguồn gốc quan trọng và to lớn sâu sắc của tệ tham nhũng là có sự lạm dụng quyền lực. Một sự thật hiển nhiên là chỉ có ai có quyền lực mới có thể tham nhũng, có quyền to thì tham nhũng to, có quyền nhỏ thì tham nhũng nhỏ. Nhân dân Thái Bình rất thông minh và thâm thuý, khi đấu tranh chống tham nhũng ở cơ sở, tập trung hỏi các cán bộ lãnh đạo của Đảng và chính quyền là : -- «Các ông cho chúng tôi biết là các ông làm thế nào mà các ông giàu nhanh như vậy ? Các ông cho chúng tôi kinh nghiệm để chúng tôi cũng làm giàu với !» Quả là cái kinh nghiệm «dùng quyền thế» là không thể truyền cho những người không có quyền thế được. Những sự lạm dụng quyền lực lại có nguồn gốc sâu xa của nó. Đó là những thể chế đã tạo ra những điều kiện, những hoàn cảnh làm cho người ta tìm được quyền lực và tự do dùng được quyền lực đó. Đó là những thể chế quyền lực không có cơ chế kìm hãm và giám sát. Những thể chế đó lại là con đẻ của một hệ thống chính trị và sự vận hành của hệ thống đó. Nguyên lý của hệ thống chính trị này là Đảng lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện, triệt để và độc tôn. Tất cả các tổ chức nhà nước, các tổ chức xã hội đều do ngân sách (tức là do nhân dân đóng góp) đài thọ và đều chỉ là công cụ xoay quanh Đảng, do Đảng chi phối, sử dụng; chỉ có nhiệm vụ phục tùng và chấp hành mọi ý kiến của Đảng, quy về danh nghĩa thì vẫn có cái mác «của nhân dân». Những thể chế nói trên là thể chế tạo điều kiện cho người ta tự do và dùng thủ đoạn để tìm kiếm quyền lực và khi có quyền lực thì tự do và tuỳ tiện dùng nó để mưu lợi và làm giàu. Nói gọn lại thì đó là những thể chế không dân chủ và tệ hơn là phản dân chủ. Những thể chế đó không để cho người dân được chút quyền nào để kìm hãm và kiểm tra những người có quyền lực. Người dân chỉ có việc đi kêu xin và được những người có quyền lực ban phát ân huệ. Vì vậy mấy chữ quyền làm chủ của dân chỉ là những chữ có tính hài hước và mỉa mai rất cay đắng. Khi người viết bài này chú ý đến một văn kiện quan trọng của nhà nước đó là «pháp lệnh chống tham nhũng». Đọc kỹ thì thấy pháp lệnh cũng chứng minh rõ rệt cái nguồn gốc nêu trên : Lạm dụng quyền lực : Điều 3 của pháp lệnh liệt kê những hành vi tham nhũng, kể ra 11 hành vi thì đến 7 hành vi có tên «lợi dụng và lạm dụng chức vụ», còn 4 hành vi khác thì cũng chỉ có thể có ở những người có chút quyền thế nào đó. Điều 13 liệt kê những việc cấm làm (9việc) thì cũng nói rõ là những việc cấm người có chức vụ quyền hạn (vì ai không có chức có quyền) thì không thể làm việc tham và nhũng được. *** Lập ra bộ máy nhà nước để quản lý xã hội, thì bộ máy đó phải có quyền lực. Nhưng mà dân làm chủ thì phải có cơ chế cho dân giám sát và kiểm soát quyền lực đó vì hiến pháp đã ghi là «Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.. ..» (Điều 2 -- Hiến pháp 1992). Thế mà không có một thể chế nào, một cơ chế nào bảo đảm cho nhân dân thực hiện cái quyền cao quý đó. Ngược lại Hiến pháp lại ghi ở Điều 4 là «Đảng Cộng Sản Việt Nam.. .. Là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội». Thế thì chỉ có Đảng, Đảng là trên cả nhà nước, trên cả nhân dân, và đó là nguyên lý phản dân chủ lớn nhất. III. Vai trò của Đảng Cộng Sản Đến đây lại phải nói về Đảng Cộng Sản và vai trò của Đảng Cộng Sản.Trải 3 phần tư thế kỷ qua, lịch sử đã khẳng định rõ ràng vai trò quan trọng của Đảng Cộng Sản trong việc tổ chức, động viên toàn dân và lãnh đạo của hai cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn, nước nhà độc lập và thống nhất. Điều đó đã mang lại vinh quang cho Đảng một cách hiển nhiên. Cũng có điều hiển nhiên khác là : Thắng lợi và vinh quang ấy của Đảng đã phải trả bằng một cái giá khá cao và rất cao : đó là sự hy sinh gian khổ và tính mạng của hàng vạn Đảng viên của Đảng. Đó cũng là những bất hạnh ghê gớm giáng xuống đầu của hàng triệu gia đình nhân dân mà hậu quả cay đắng ngày nay cũng có thể còn gặp luôn trên báo chí và trên khắp nẻo đường đất nước. Trong đó có cả những bất hạnh gây nên bởi những sai lầm, thất bại của Đảng( sẽ nói tiếp sau đây). Nhưng có điều Đảng đã làm cái việc tự khen mình tự biểu dương cái vẻ vang của mình quá cao, quá nhiều và quá lâu. Điều đó cũng che lấp đi một sự thật cũng hiển nhiên khác là bên cạnh sự đúng đắn thắng lợi, trong lịch sử của mình Đảng cũng mắc không ít sai lầm và có những thất bại nặng nề. Nhưng vì cuối cùng thì thắng lợi của ta lớn quá, cho nên những sai lầm và thất bại đó bị che lấp và quên lãng. Và cũng bởi vì Đảng lại dùng phép biện chứng chứng minh rằng : mỗi lần thất bại, Đảng vẫn thu được thắng lợi lớn : đó là bài học kinh nghiệm tiến lên. Nhưng thực ra có những khuyết điểm sai lầm của Đảng mang tai hoạ cho toàn dân tộc, tàn phá số phận của hàng vạn gia đình và hàng triệu con người. Đó là những thất bại của Xô Viết Nghệ Tỹnh (1930), của khởi nghĩa Nam kỳ\(1940). Đó là sai lầm của cải cách ruộng đất (1955 -- 1956), cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Đó là sai lầm về đường lối của Đại hội IV sau toàn thắng, làm cả dân tộc rơi vào khốn đốn; đó là sai lầm tuỳ tiện nhập vào tách ra các địa phương tốn kém nhiều tiền và ngăn trở phát triển; sai lầm của những vụ án oan mà Đảng đã xử lý một cách tuỳ tiện độc đoán cũng tác hại cho xã hội không kém, càng về sau sự thật càng chứng tỏ những vụ án đó là oan sai, chỉ có cải cách ruộng đất là có sự «sửa sai» đàng hoàng. Tuy vậy sửa sai cũng chỉ làm cái việc hốt lại bát nước đã đổ xuống đất. Còn các vụ khác, đảng lẳng lặng sửa sai tí chút, nhưng cứ lờ đi không công khai tuyên bố rõ sai lầm và sửa sai. Đảng cứ làm ra vẻ «không bao giờ có sai lầm» và mọi việc làm nho nhỏ để sửa sai thì lại chứng minh là «tinh thần nhân đạo khoan hồng cao cả» của Đảng ban phát cho các nạn nhân. Thậm chí có ai công khai nói lên sự sửa sai đó, Đảng còn kỷ luật khai trừ nữa. Đảng luôn luôn tìm mọi cách để chứng tỏ (nhất là hệ thống công tác tư tưởng văn hoá cứ nói lấy được) rằng : Đảng Cộng Sản chỉ có thắng lợi, hết thắng lợi này sang thắng lợi khác, chỉ có sáng suốt và tài tình; có thất bại cũng thắng lợi, có sai lầm cũng sáng suốt, tài tình, không bao giờ có thất bại, không bao giờ có sai lầm. Chính vì thế đảng cả cố ý cả vô tình cứ che dấu những cái sai lầm khuyết điểm một cách có hệ thống. Trong khi ấy nguyên lý xây dựng Đảng là «lấy phê bình và tự phê bình làm quy luật phát triển của Đảng». Đảng tạo nên một thói quen : cứ nói một đằng làm một nẻo, đến nỗi thói quen ấy trở thành nét chủ yếu và bản chất của Đảng; nhân dân không thể gửi được lòng tin của mình vào đảng nữa. Đảng Cộng Sản Việt Nam có một lịch sử vẻ vang rực rỡ thật, nhưng Đảng khai thác quá mức, quá lâu cái vẻ vang đó và cứ tìm cách không thừa nhận thậm chí che dấu các sai lầm và thất bại của mình. Như vậy thì chỉ làm tổn thương và xói mòn cái vẻ vang rực rỡ của mình, hơn nữa lại phản lại nguyên tắc của mình là không chịu phê bình và tự phê bình. Mong rằng Đảng nhận rõ nguyên lý này. *** Hiện nay đảng đang thực hiện việc «lãnh đạo tuyệt đối» thực chất là độc tôn chuyên chế phản dân chủ. Đảng cũng tự cảm thấy mình không dân chủ, cho nên phải ban hành chủ trương quy chế dân chủ cơ sở, làm như chỉ có mất dân chủ ở cơ sở thôi. Trước đây trong chiến tranh giải phóng, yêu cầu của cuộc sống chiến đấu là chí căm thù, lòng dũng cảm, chí sẵn sàng hy sinh chịu đựng gian khổ. Lúc đó đảng Cộng Sản và những đảng viên của mình đã là tiêu biểu xứng đáng cho những yêu cầu đó. Vì thế đảng là niềm tin và ánh sáng của nhân dân. Ngày nay trong cuộc sống hoà bình và xây dựng, yêu cầu cuộc sống là trí thức là chuyên môn, là sự công bằng, trung thực. Đảng Cộng Sản với hệ thống chính trị như trên, và Đảng nắm trọn quyền lực, liền theo đó là các thứ quyền lợi, thì nhân dân thấy Đảng khác đi rồi. Đảng càng cố chứng minh là của nhân dân, vì nhân dân, thì cuộc sống lại càng chứng minh ngược lại. Đảng có thể giữ vị trí trong hệ thống chính trị, nhưng không giữ được vị trí trong lòng dân. Càng ngày đảng càng tỏ ra không tiêu biểu cho trí tuệ, sự công bằng và trung thực. Thực ra đảng đã phải lo ngại về cái mất dân chủ của mình, nên giới lý luận chính thống đã phải tổ chức hội thảo vấn đề : Một đảng lãnh đạo có thể có dân chủ được không ? Như vậy là đã cảm thấy mình kém dân chủ phản dân chủ ; phải tìm ra cái lý luận nói rằng Đảng lãnh đạo độc tôn cũng vẫn dân chủ được. Khốn khổ thế ! Trong cuộc thảo luận ở một báo cáo đề dẫn có nêu lên rằng : Chế độ một đảng duy nhất cầm quyền có những trở ngại và nguy cơ như sau : 1 -- Chủ quan, duy ý chí và quan liêu trong xác định chủ trương đường lối. 2 -- Đảng dễ áp đặt ý chí của mình với Nhà nước và xã hội sắp đặt người của đảng vào các cơ quan Nhà nước và các đoàn thể xã hội, tự đặt mình lên trên nhà nước và pháp luật, bao biện làm thay công việc của Nhà nước mà không chịu trách nhiệm pháp lý nào về trách nhiệm cuả mình. 3 -- Hệ thống các đoàn thể xã hội có thiên hướng về Đảng (nịnh đảng, chỉ chấp hành nhiệm vụ trước đảng) hơn là làm tròn trách nhiệm đại biểu cho nguyện vọng, lợi ích của đoàn viên, hội viên mà mình là đại diện. 4 -- Các đảng viên có chức có quyền đã sa vào đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng, cửa quyền gây phiền hà cho dân. 5 -- Người dân rất khó kiểm tra, giám sát được các cơ quan có quyền lực (gồm toàn người của Đảng) 6 -- Dân chủ xã hội bị vi phạm quá mức thì sẽ đổ vỡ tất cả (từ chính quyền đến đảng) Thực ra, đó là những sự thật đang diễn ra và đã diễn ra, những sự thật cay đắng nói lên tình trạng phản dân chủ, chứ chắng phải nguy cơ gì nữa. Có điều sự đổ vỡ là nguy cơ có thật. Các «nhà lý luận» nêu lên một lập luận là một Đảng lãnh đạo cũng có thể dân chủ được và nêu lên là cần phải có các điều kiện. Các điều kiện nêu lên rất mơ hồ và trừu tượng, ví dụ : --Phải là Đảng chân chính cách mạng -- Phải có dân chủ trong Đảng. -- Phải có trí thức, năng lực, bản lĩnh cao. -- Phải có phương thức tổ chức và lãnh đạo đúng đắn v.v.. Đề ra điều kiện như thế rồi Đảng cứ tự nhận là mình đã có đầy đủ điều kiện như thế và yên trí như vậy để duy trì sự lãnh đạo độc tôn của mình thì ai biết đấy là đâu ? ? ? Trong chiến tranh giải phóng, Đảng đã từng là tiêu biểu cho sự hy sinh, lòng dũng cảm chiến đấu và đã hưởng cái vinh quang ấy rồi. Ngày nay trong hoàn cảnh xây dựng đất nước, trong tình thế cả thế giới và nhân loại đang biến động. Có thể nói chắc rằng Đảng dù có 3 triệu đảng viên cũng chỉ là 1/25 toàn dân tộc, không thể là nơi tập trung hết được trí tuệ của dân tộc, không thể được toàn dân tộc thừa nhận như vậy. Trong một cuộc hội thảo có một đồng chí lão thành đã đặt ra 3 câu hỏi : 1 -- Hiện nay Đảng Cộng Sản có phải là nơi tập trung và tiêu biểu cho trí tuệ của toàn dân tộc không ? 2 -- Ban chấp hành Trung ương của Đảng có tập trung và tiêu biểu được cho trí tuệ của toàn Đảng không ? 3 -- Bộ chính trị hiện nay có tập trung và tiêu biểu cho trí tuệ của toàn trung ương không ? Với tình hình trong Đảng hiện nay có tới 1/3 là các Đảng viên lão thành mà toàn dân tộc đã có hàng nhiều triệu trí thức cũ và mới ; thì người đặt câu hỏi như trên tức là vừa đặt câu hỏi đồng thời đã trả lời là «không» rồi. Vấn đề là ai là người đánh giá Đảng với những điều kiện như vậy ? Trong khi Đảng bắt mọi người phải nói một lời ; trừng phạt và bỏ tù tất cả những người nói khác. Cứ thực hiện phản dân chủ rồi rêu rao là dân chủ tuyệt vời mà không ai được nói khác. Những nguy cơ và trở ngại mà hội thảo nêu lên ở trên là nguồn gốc của tham nhũng. Chỉ có khẳng định nguồn gốc như thế mới tìm được con đường khắc phục tham nhũng. Hầu như nước nào cũng có tệ nạn tham nhũng. Tệ nạn ấy thường gắn liền với tệ quan liêu và thiếu dân chủ. ™ Việt Nam nó là căn bệnh nan y vì nó gắn liền với quan liêu và phản dân chủ. IV -- Chống tham nhũng thế nào ? Bây giờ vấn đề đặt ra là công cuộc chống tham nhũng cần tiếp tục thế nào ? Có biện pháp nào khác nữa không ? Các biện pháp cũ (lên án, vận động, lập tổ chức) cần có cường độ và mật độ cao hơn nữa được không ? Có thêm nhiều vụ xử án và án tử hình hơn nữa hay không ? Bắt bồi thường nhiều hơn nữa liệu có cải thiện được ngân sách chút nào không ? Nhân dân có thể cởi bỏ được khỏi ách THAM và NHUNG hay không ? Xin nói ngay rằng phải có một phương pháp hay lớn hơn phương pháp là một chiến lược. Có một chiến lược chống tham nhũng như thế nào đó, có thể chưa diệt ngay được nạn tham nhũng, nhưng ít nhất có thể ngăn chặn, đẩy lùi từng bước, và nếu chiến lược này được tiếp tục phát triển thì có nhiều triển vọng đẩy lùi hẳn và đánh bại hẳn được giặc tham nhũng. Chiến lược đó không có gì mới lạ, nó đã được ghi vào ở nhiều nghị quyết, nhiều văn bản và nhất là nó đã được ghi một cách trịnh trọng vào hiến pháp năm 1992, chẳng có gì là xa lạ. Đó là «CHIẾN LƯỢC DÂN CHỦ». Ta vẫn tự hào, chế độ của ta là chế độ DAN CHU, và ta đã nói khá nhiều về dân chủ, nhưng chỉ tiếc rằng điều đó chỉ mới nằm chơ vơ trên mặt giấy. Cho nên bây giờ phải gọi là CHIẾN LƯỢC DÂN CHỦ HOÁ. Nghĩa là phải HOÁ cái dân chủ trên giấy thành dân chủ thực sự trong cuộc sống. Hiến pháp 1992 đã có một chương, chương V nói về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, chương đó có 34 điều. Trong đó đặc biệt có điều 59 nói về quyền thảo luận và tham gia quản lý nhà nước -- Điều 54 về quyền bầu cử ứng cử -- Điều 60 về quyền tự do nghiên cứu sáng tác -- Điều 69 về tự do thông tin, báo chí, tự do lập hội và Điều 74 về quyền khiếu nại tố cáo.. .. Các Điều của Hiến pháp phần lớn đều có một cái đuôi : « theo luật định», xong rồi lại có những đạo luật ngược lại với tinh thần của điều Hiến pháp ấy. Gần đây chỉ có luật kinh doanh có vẻ phù hợp với điều 57 về quyền tự do kinh doanh. Còn đi sâu vào tư tưởng của các luật thì đều có vấn đề; sẽ nêu một số điểm ở phần sau. Tham nhũng đã thành «quốc nạn» và «nội xâm» thì tai nạn đó không phải là nhỏ, không phải là ở tầm chiến thuật và chiến dịch. Nó đã vượt lên trên tất cả các tai hoạ, kể cả» tai hoạ an toàn giao thông», tai hoạ «ma tuý» và HIV. Đó là những tai hoạ lớn ảnh hưởng đến an toàn xã hội, đến tương lai của giống nòi. Nhưng tai hoạ tham nhũng còn lớn hơn thế nữa. Nó mang lại nguy cơ tồn vong của cả một chế độ, tồn vong của một nhà nước ; nguy cơ tan rã cả một hệ thống chính trị. Vì vậy, nó là tai hoạ có «tầm cỡ chiến lược» và vì vậy không thể chống nó, đấu tranh với nó bằng các «mẹo vặt» ở tầm cỡ chiến thuật và chiến dịch. Phải đấu tranh với nó bằng cả một chiến lược và các biện pháp chiến lược. Như trên đã nói, phải có cả một chiến lược dân chủ hoá. Chỉ có một chiến lược dân chủ mới đấu tranh lại được với tai hoạ tham nhũng. Chiến lược đó phải bao hàm tư tưởng chỉ đạo chiến lược và các biện pháp chiến lược. Các biện pháp ấy phải nhất quán với nhau và với tư tưởng chiến lược. Về tư tưởng chiến lược ta đã có đây đó ghi trong Hiến pháp, trong các lời nói của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, trong các văn kiện của Đảng Cộng Sản và trong cả những lời nói của nhiều nhân vật lãnh đạo. Nhất là tư tưởng đó cũng được bộc lộ nhiều lần, nhiều nơi ở trong nguyện vọng của nhân dân. Nhưng những tư tưởng ấy chưa được nhất quán trong một sự lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt sâu sắc và vô tư. Nói một cách khác chưa có một cơ quan lãnh đạo coi chiến lược dân chủ là một chiến lược nhất quán, chưa quyết tâm và dũng cảm đứng về phía dân chủ, tức là đứng về phía nhân dân. Cơ quan lãnh đạo hoặc những người lãnh đạo nhiều lúc tỏ ra ngược lại với nhân dân, tỏ ra ưu ái và bênh vực những người tham nhũng và những trò tham nhũng. Ví dụ như sau : a) Có việc, nhân dân mà đại diện là các vị lão thành đáng kính ở Hà Nội tố cáo. Sự tố cáo này có phần đúng mà có thể có phần chưa đúng hoàn toàn. Nhưng thái độ của lãnh đạo là thanh minh cho người bị tố cáo ; truy hỏi và trừng phạt các người tố cáo. Đảng khai trừ những người tố cáo. Vậy là như nhân dân đã nói : lãnh đạo và Đảng bao che cho tham nhũng và trừng phạt những người chống tham nhũng. b) Các luật đã ban hành đều có ý đề phòng ngăn ngừa những người nói sự thật (luật hình sự, luật báo chí) đều có điều khoản quy một tội là : «lợi dụng tự do, dân chủ.. ..», về phía nhân dân mà nói, người ta có quyền tự do dân chủ -- đó là quyền của người ta thì người ta có quyền dùng nó để bảo vệ lợi ích cho mình. Tại sao lại có điều luật cấm lợi dụng (tức là dùng) quyền tự do dân chủ. Như thế là luật pháp Nhà nước công khai tuyên bố cấm tự do dân chủ. c) Pháp lệnh chống tham nhũng ra đời chỉ để đánh lừa nhân dân, tuyên bố là nhà nước chống tham nhũng, nhưng đọc kỹ ở khoản 2, điều 19 (trang 20) thì thấy ghi : «2 -- Nghiêm cấm mọi hành vi lợi dụng quyền tố cáo để vu cáo làm thiệt hại đến danh dự, uy tín và lợi ích của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Người vu cáo phải bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật». Vậy thì ta thấy mấy điểm như sau : Đúng «vu cáo» là một tội. Khi có sự điều tra có đầy đủ chứng cớ của một sự vu cáo thì trị tội. Khoản này chỉ cần có câu cuối cùng nói về tội vu cáo. Còn cả đoạn trên thì lại thể hiện sự bênh che và bảo vệ những kẻ tham nhũng. Nếu chính quyền nhà nước và cơ quan lãnh đạo biểu thị quyết tâm chống tham nhũng thì phải khuyến khích sự tố cáo rộng rãi của nhân dân. Những kẻ tham nhũng có thể dễ dàng dấu cấp trên, dấu cơ quan nhưng không thể nào dấu được tai mắt nhân dân. Những kẻ đó làm bao nhiêu nhà, ở đâu đứng tên ai, tốn bao nhiêu tiền, ăn tiêu như thế nào, gửi tiền ở những đâu, nhân dân đều biết rõ cả và họ thường trao đổi với nhau ở hè phố, ở chợ, ở quán. Nếu cơ quan lãnh đạo có quyết tâm chống tham nhũng thì hãy cho thu thập các nguồn tin đó. Những tin đó có thể đánh giá như sau : cứ một trăm (100) tin thì 50% là không hoàn toàn đúng, 30% là sai hoàn toàn, còn 20% là gần đúng và đúng. Nếu trân trọng ý kiến của dân thì trân trọng cái 20% kia và thu thập cái 50% mà chọn lọc, thậm chí cái 30% cũng đáng quan tâm. Một trăm tin mà chỉ có 1,2 tin đúng cũng là đáng quý. Chưa khuyến khích sự tố cáo của nhân dân đã đòi nghiêm trị «tội lợi dụng quyền tố cáo» thì không phải là chống mà là bênh tham nhũng. Ở Hàn Quốc dân còn gửi cho chính phủ những «Danh sách đen» tố cáo rõ tên những kẻ tham nhũng là quan chức cao cấp. Như vậy ở Hàn Quốc quyền tố cáo được tôn trọng và khuyến khích. Ở ta, cũng có những người gửi đến lãnh đạo các danh sách đen -- có danh sách hai tên, có danh sách bảy tên. Nhưng những thứ ấy bị vứt vào im lặng lâu dài. Tuy đã nhận được những»danh sách đen» nhưng ở Hàn Quốc người ta còn điều tra nghiên cứu, chứ có phải là cứ tố cáo thì xử tội ngay đâu! Tuy nhiên ít nhất cũng là có sự cảnh cáo đối với các tên đó và nhân dân được thực hiện quyền tố cáo sẽ phấn khởi, có gì là hỗn loạn và không ổn định đâu. Vấn đề đặt ra là nhà nước và lãnh đạo có thực lòng đứng về nhân dân để quyết tâm chống tham nhũng không ? hay là vẫn xót xa muốn bênh vực cho tham nhũng. Bao nhiêu lời lẽ hùng hồn, không che dấu được tình hình này. Tình hình cứ như mấy điểm vừa nói trên thì tham nhũng chỉ có nặng thêm chứ làm sao mà chống được tham nhũng. *** Ngoài vấn đề tư tưởng chỉ đạo của nhà nước ra còn một vấn đề chiến lược khác có tầm quan trọng hơn. Nó bao trùm tất cả, chi phối tất cả, tác động tất cả. Bởi vì nó quyết định được việc loại trừ sự lạm dụng chức quyền bằng cách bộ máy nhà nước vận hành trong» một cơ chế hãm» có hiệu lực và đặt dưới sự giám sát thật sự của nhân dân. Như vậy phải loại trừ sự độc tôn và chuyên chế -- đồng thời phải có một cơ cấu hợp lý cho hệ thống chính trị với mấy nguyên tắc : -- Tập trung quyền điều khiển quản lý đất nước và nhân dân trong tay các cơ quan nhà nước tức Quốc Hội và Chính phủ. -- Đảng giữ vai trò là một tổ chức chính trị có quyền giới thiệu Đảng viên của mình ra tranh cử các vị trong Quốc hội và Chính phủ. Tranh cử chứ không phải Đảng quyết định bổ nhiệm, quyền chọn lựa phải để dân tự do. Đảng có quyền dùng trí tuệ và học thuyết của mình để phân tích tình hình thế giới và nhà nước, đề xuất những dự kiến chính sách, và những người khác ngoài Đảng cũng có quyền như vậy. Còn quyền quyết định là do Quốc hội và Chính phủ tiếp thu, cân nhắc rồi chọn lọc và quyết định. Đảng không được quyết định thay cho cơ quan nhà nước và bắt cả xã hội phải tuân theo. Như vậy không có gì là hạ thấp vai trò của Đảng mà chỉ tước cái quyền độc đoán và chuyên chế của Đảng. Điều này Đảng cộng sản chân chính cũng không hề chủ trương. Vì vậy, vấn đề chiến lược bao trùm là phải cải cách hệ thống chính trị, định lại cơ cấu hệ thống chính trị. Phải phân biệt rõ cơ quan nhà nước do nhân dân nuôi với tổ chức xã hội (dù là tổ chức chính trị xã hội) phải tự nuôi, không thể Nhà nước hoá tất cả các tổ chức xã hội mà thực chất là trói buộc các tổ chức xã hội vào guồng máy của Đảng. Các tổ chức xã hội phái tự nuôi và có quyền độc lập của mình. Phải định lại nguyên tắc vận hành của hệ thống chính trị. Phải có nguyên tắc là mọi tổ chức xã hội phải độc lập và bình đẳng với nhau, không thể có tổ chức cha và tổ chức con được. Nhà nước chỉ có thể trợ cấp một cách rất hạn chế cho Đảng Cộng Sản và Mặt trận tổ quốc chứ không thể gánh vác sự đài thọ cho hàng trăm tổ chức và lại phải cung cấp theo lệnh của Đảng. Phải đi tới thực hiện 3 quyền phân lập, mà xoá bỏ sự bao biện của Đảng. Đấy cũng là một trong nền tảng của nền dân chủ, và là vấn đề quá lớn cần phải giải quyết dần dần. Nhưng trước sau gì thì cũng phải giải quyết. Vì vậy sau này sẽ còn phải nói tiếp. Chiến lược dân chủ hoá trước mắt đòi hỏi những người có thực tâm chống tham nhũng phải nghĩ ngay đến những biện pháp chiến lược trước mắt và có thể thực hiện ngay (những biện pháp khả thi). *** Biện pháp chiến lược thứ nhất là bảo đảm cho nhân dân thực hiện được quyền giám sát và quyền bày tỏ nguyện vọng chống tham nhũng của mình. Biện pháp này bao hàm một tư tưởng chỉ đạo là bảo đảm cho toàn dân được tự do bày tỏ nguyện vọng, bộc lộ được hiểu biết của mình về nạn tham nhũng, tự do cung cấp thông tin về các hành vi tham nhũng. Điều này bao gồm : -- Phải có và thực hiện tư tưởng chỉ đạo là khuyến khích mọi nguyện vọng chống tham nhũng. Từ trước việc gì ta cũng nói chống tham nhũng là nhiệm vụ của toàn dân. Nhưng trước đây ta nêu khẩu hiệu nhiệm vụ của toàn dân thì thường chỉ nói : với ngụ ý dân là tay sai, công cụ, phải chấp hành những nhiệm vụ của lãnh đạo; phải ủng hộ và cộng tác với công an, thực chất phải làm tay sai cho công an. Nhiệm vụ chống cái gì thì cũng công an làm nòng cốt : từ chống buôn lậu, chống ma tuý, giữ trật tự xã hội.. .. đều là như thế. Công an là nòng cốt, còn dân thì phải giúp đỡ, phải báo cáo, phải cung cấp thông tin, chưa bao giờ lãnh đạo biểu lộ ý thức coi dân là chủ; vậy chống tham nhũng thì các cơ quan nhà nước phải đặc biệt khuyến khích nhân dân tự động tố cáo mọi hành vi tham nhũng. Phải sửa ngay luật báo chí và xuất bản, đảm bảo mọi người tự do viết báo, làm báo, tự do sáng tác văn học, tự do viết và tự do in. Như thế mới có phương tiện cho nhân dân tự do chống tham nhũng và cũng chỉ là để cho nhân dân thực hiện quyền dân chủ cơ bản của mình mà thôi. Việc này phải được thực hiện trong quyền tự do báo chí và xuất bản. Có tự do báo chí và xuất bản, các văn nghệ sĩ và trí thức mới thực hiện được quyền ăn nói của mình, quyền nói lên những ý kiến và nguyện vọng của nhân dân. Nhân dân mới có nơi để gửi gắm những ý kiến nguyện vọng của mình. Nhà nước thường tự xưng là của nhân dân, nhưng thực sự bộ máy nhà nước ít khi tôn trọng ý kiến của dân và cũng không nghe hết được mọi thứ ý của dân. Bộ máy nhà nước thường tách khỏi nhân dân và coi dân là đối tượng cai trị của mình. Phải để cho dân có phạm vi rộng lớn phát biểu ý nguyện của mình, gửi gắm ý nguyện, văn nghệ sĩ trí thức là những thành phần trong nhân dân. Không được quan liêu hoá, Nhà nước hoá các cơ quan ngôn luận và khống chế các cơ quan ngôn luận. Trước ta nói lý thuyết là dưới chính quyền cách mạng thì các quyền dân chủ của dân có các phương tiện của nhà nước bảo đảm (bầu cử, in, báo chí). Nhưng thực tế luật của ta chỉ bảo đảm cho các tổ chức (Nhà nước) có các quyền ấy, mà Nhà nước thì đã tách khỏi dân. Rút cuộc dân chẳng có quyền mà cũng chẳng có phương tiện gì để thực hiện quyền của mình. Có thể có nhiều người ngại tự do ngôn luận sẽ làm cho tình hình xã hội rối loạn, kẻ xấu lợi dụng. Đó chỉ là lý do của những người sợ dân. Kẻ xấu đã lợi dụng tình trạng không có tự do ngôn luận nhiều hơn. Nếu có tự do ngôn luận, tự do thông tin thì kẻ xấu không lợi dụng được; nhân dân không phải ngóng ra nước ngoài để biết tin thực ở trong nước. Các nước phát triển thực hiện tự do ngôn luận không hề có bất ổn định. Tự do ngôn luận đều có tác dụng ngăn ngừa, răn đe cán bộ nhà nước và cả các nguyên thủ không được lạm dụng quyền lực. Ta ngăn cấm tự do ngôn luận tức là khuyến khích tự do lạm dụng quyền lực, tự do tham nhũng. Tự do ngôn luận (báo chí, xuất bản) là một biện pháp chiến lược hiển nhiên để chống tham nhũng. Biện pháp chiến lược thứ hai là phải chỉnh huấn gắt gao cho cán bộ và các cơ quan nhà nước thấm nhuần ý thức và tâm lý là người làm công (là công bộc, đầy tớ) cho nhân dân, không được coi công việc mình làm là doạ nạt, đòi hỏi nhân dân, cũng không phải là ban ơn làm phúc cho nhân dân. Dù cho có những người đi dẹp trật tự đường phố, giữ luật đi đường, đi thu thuế, đi soát xét việc này việc khác thì không được coi mình là trên nhân dân, bắt buộc nhân dân, mà phải là người thương lượng với dân. Những người ngồi bàn giấy để đóng dấu, để ký chứng nhận, để trả lời những câu hỏi thì phải lễ phép với dân, không được tự coi là người cho phép, người dẫn dắt dân. Người bán hàng còn coi người mua là thượng đế và nêu phương châm :» khách hàng luôn luôn đúng»; vậy thì người cán bộ nhà nước cũng phải có thái độ coi dân là thượng đế, là cha mẹ, anh chị. Điều này Bác Hồ đã nói nhiều. Nhưng trong cuộc sống thực tế hiện nay thì người cán bộ nhà nước, anh công an cứ là những người cao hơn, có quyền hơn, đáng sợ hơn, còn là người thường dân thì kém hơn. Ai muốn nhún mình nữa còn xưng là phó thường dân. Không khí xã hội như vậy thì người nhà nước, các ông quan cứ tha hồ mà lạm quyền, người dân cứ tha hồ mà chịu đựng, không có quyền gì, phương tiện gì để ngăn chặn sự lạm quyền. Sự lạm quyền không được ngăn chặn thì tự nhiên là có tham nhũng và không chống được tham nhũng. Chỉ có một sinh hoạt dân chủ, tạo một không khí xã hội mà dân thực sự làm chủ thì mới có hiệu quả chống tham nhũng. Nếu không, thì bao nhiêu sự đề cao đạo đức như :»Y đức», «Giáo đức», «Báo đức» chỉ là trò cười, trò hô hào suông, trò giả dối. Một biện pháp chiến lược nữa để bảo đảm quyền dân chủ cho dân : đó là phải rà soát lại toàn bộ các luật bầu cử trong Đảng cũng như trong xã hội. Xây dựng luật bầu cử theo hướng bảo đảm thật sự tự do ứng cử và tự do bầu cử. Chỉ có sự giới thiệu, còn sự vận động tranh cử cũng phải tự do thoải mái. Cần bác bỏ, triệt tiêu hết các thủ đoạn gò bó qua sự hiệp thương của mặt trận mà thực chất chỉ là gò ép chấp nhận ý kiến chỉ đạo của Đảng (các cấp uỷ). Những thủ đoạn đó làm nản lòng nhiều thanh niên và trí thức. Do đó che lấp mất nhiều nhân tài và mầm non nhân tài. Vì vậy chung quy lại cũng chỉ rõ ra có một chân lý đơn giản này : chỉ có dân thực sự làm chủ, chỉ có một cuộc sống xã hội thực hiện đầy đủ các quyền dân chủ cơ bản của người dân thì xã hội mới lành mạnh, mới chống được tham nhũng. Hình như có người lại lo rằng : dân ta dân trí còn thấp, giao cho nhiều quyền dân chủ thì dân cũng không biết dùng và dùng lung tung, lại có hại cho xã hội. Vậy xin hỏi chờ đến bao giờ mới giao được quyền dân chủ cho dân ? ? ? Không giao cho dân thì bao giờ dân mới biết dùng. Giao mà chưa giao đã doạ bỏ tù người dùng( lợi dụng) thì bao giờ mới giao được ? Có người ngại kẻ địch lợi dụng ? ? ? Ai là kẻ địch bây giờ ? Trong khi ta cần làm bạn với tất cả mọi người trên thế giới. Như trên đã có chỗ nói : Chính vì chính quyền ta không dân chủ thì những người trên thế giới (cả người tốt và người xấu) họ đang đều xỉa xói chê bai, và họ tỏ ra không muốn giao lưu, không hợp tác không đầu tư. Không khí xã hội có dân chủ thì đúng là nó sẽ không yên ổn, nó luôn sôi động, nhiều tiếng nói và như thế không phải là không ổn định. Không nên coi thường nhân dân ta quá. Nhân dân ta có ý thức chính trị rất cao, nhân dân Thái Bình đã phẫn nộ rất cao mà không khí vẫn ôn hoà và kiên nhẫn. Nhân dân không ai muốn xáo động và mất ổn định. Nhưng phải để cho dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Không ai thay dân chống được tham nhũng. Những người có quyền lực và cứ luôn lo sợ bị mất quyền lực là những người không chống được tham nhũng và chỉ có dung túng tham nhũng.
Tôi yêu VN
Tôi yêu VN
Trả lời 16 năm trước
Tham khảo thêm bài này nữa nhé Mấy vấn đề về văn hoá trong cách xưng hô của người Việt Cao Xuân Hạo Ai nấy đều biết rằng tiếng Việt không có một đại từ nhân xưng (hay hồi chỉ) trung hoà. Không phải tiếng Việt không có những đại từ nhân xưng chính danh. Tao, mày, nó, hắn (chúng tao, chúng mày, chúng nó) và họ, có thể coi là những đại từ nhân xưng và hồi chỉ chính danh. Nhưng trừ họ (đại từ hồi chỉ ngôi thứ ba số phức) ra, tất cả các đại từ nàyđều được cảm thụ như không được lễ độ, và không thể dùng trong khi giao tiếp với người dưng trong khuôn khổ xã giao bình thường, và ngay cả họ cũng không phải lúc nào cũng dùng được (chẳng hạn không thể dùng thay cho cha mẹ hay người thân tộc ở bậc trên so với người nói). Tất cả các từ thường được dùng để xưng hô trong những điều kiện giao tiếp bình thường đều là những danh từ, trước hết là những thuật ngữ chỉ quan hệ thân tộc (trừ dâu, rể, vợ, chồng, ông nhạc, bà nhạc, v.v1) rồi đến những thuật ngữ chỉ những chức vụ hay cương vị có ít nhiều màu sắc tôn vinh như thầy, giáo sư, chủ tịch, bác sĩ, bộ trưởng, sư ông, sư cụ, thủ trưởng, sếp, rồi các cấp bậc quân đội, - nếu không kể một vài trường hợp dùng danh từ chỉ người nhà như vú. Ngày nay có thể coi một vài danh từ như tôi đã trở thành một “đại từ” gần như trung hoà, có thể dùng với bất cứ người nào không có quan hệ thân tộc với người nói. Ít nhất cái sắc thái khiêm tốn do nghĩa gốc (“tôi tớ”, “tôi đòi”, “bề tôi”) để lại thì kể cho đến nay gần như đã mất hẳn, nhất là khi tôi hầu như không bao giờ dùng một mình như một đại danh từ nữa, mà chỉ dùng trong những ngữ đoạn (đẳng kết như tôi tớ, hay chính phụ như bề tôi). Trong khi đó, chữ tớ, vống đồng nghĩa với tôi, lại phải được dùng trong những điều kiện khác hẳn, và có những sắc thái tuyệt nhiên không thích hợp với những cuộc giao tiếp với người dưng. Cũng cần phải nêu rõ rằng các từ thân tộc chỉ dùng để xưng hô, nghĩa là để chỉ ngôi thứ nhất hay ngôi thứ hai, chứ không bao giờ được dùng như đại từ hồi chỉ, nghĩa là để chỉ ngôi thứ ba thay cho danh ngữ, như một vài tác giả trước đây đã từng ngộ nhận. Điều này có thể thấy rõ qua cách đánh trọng âm của các từ hữu quan khi được dùng như danh từ và khi được dùng như đại từ: khi được dùng như đại từ (ngôi thứ nhất hay ngôi thứ hai), những từ này bao giờ cũng mất cái trọng âm mà nó có thể có khi được dùng như danh từ. Chúng tôi đã thực nghiệm điều này trong nhiều lớp tiểu học qua những trò chơi “đố các em đoán ra ai là người nói những câu có mẹ, con, bố như “Con nhớ ủ cơm cho nóng để mẹ về mẹ ăn” hay “Đừng nghịch máy tính, không bố về bố mắng cho đấy”: nhờ trọng âm, học sinh lớp 1 không bao giờ nhầm khi người làm thí nghiệm đố các em biết “ai là người nói câu ấy” (được diễn viên kịch nói thu vào băng ghi âm). Như vậy, có thể tin rằng đã hình thành một hệ thống đại từ nhân xưng, hay ít nhất là đã có một quá trình ngữ pháp hoá cá đại từ tương tự như quá trình ngữ pháp hoá (hư hoá) các danh từ chỉ “phía” trên, dưới, trong, ngoài thành những giới từ đánh dấu vai định vị (locative) và quá trình ngữ pháp hóa các vị từ có ý nghĩa di chuyển như lên, xuống, ra, vào, qua, sang, đi, về, lại, đến, tới thành những giới từ chỉ đích (target hay goal), cũng được khu biệt với các thực từ gốc bằng tiêu chí”mất trọng âm” – một phương tiện chung của tiếng Việt để khu biệt hư từ với thực từ. Thế nhưng, khác với các vị từ (“động từ”) khi chuyển thành giới từ chẳng hạn, các danh từ chỉ quan hệ thân thuộc khi chuyển thành đại từ nhân xưng không có dấu hiệu gì mất nghĩa từ vựng một cách đáng kể như khi vị từ cho chuyển thành giới từ cho mà ta có thể quan sát khi so sánh hai câu Lấy tiền cho bạn [ 0111] Có nghĩa là “lấy tiền để biếu bạn” (cho là vị từ hành động) và Lấy tiền cho bạn [0101] có nghĩa là “lấy tiền giùm bạn” (cho là giới từ chỉ vai “người hưởng lợi” – beneficiary). Sự thay đổi về nghĩa ở đây không đưa đến một sự chuyển hoá về từ loại làm cho cấu trúc cú pháp của câu khác hẳn đi như trong hai câu trên, mà chỉ tương đương với một sự chuyển đổi từ “nghĩa đen” sang “nghĩa bóng” (nghĩa ẩn dụ) của chính những danh từ ấy: từ chỗ biểu thị một quan hệ thân tộc đích thực, danh từ ấy biểu thị một một mối quan hệ mà người nói dường như coi là”gần giống” với quan hệ thân tộc. Nghĩa là người nói làm như thế người nghe (hay người được nói đến), tuỳ theo lứa tuổi tương đối so với người nói, được mình coi như có quan hệ thân tộc với mình. Rốt cục, như nhiều nhà văn hoá học đã nêu lên, người Việt trong khi giao tiếp làm như thể họ coi nhau như người có quan hệ thân tộc. Tôi đã được nghe nhiều diễn giả ca ngợi cách xưng hô này của người Việt, cho thấy một mối thâm tình gắn bó toàn dân lại thành một gia đình. Và mặt khác, trong một cuộc hội nghị quốc tế về các giá trị văn hoá phương Đông tôi cũng đã chứng kiến sự thích thú vô hạn của những nhà văn hoá học ngoại quốckhi tôi miêu tả những tình huống khác nhau có thể diễn ra khi một người con trai chuyển từ cách xưng hô tôi/cô với một người bạn gái cùng cơ quan ( một cách xưng hô gần như trung hoà giữa những người lạ cùng một lứa tuổi) sang cách xưng hô anh-em mà tôi thuyết minh như một mưu toan thay đổi (an attempt at a change) mối quan hệ giữa hai người về phía thân mật hơn ( vì đó là cách xưng hô của những đôi tình nhân hay những đôi vợ chồng), và trong những điều kiện nhất địnhcó thể có giá trị như một lời tỏ tình không úp mở, và những cách phản ứng đa dạng mà người con gái có thể có, với những ý nghĩa có rất nhiều sắc thái khác nhau của nó. Mặt khác, khi một người chồng thay cách xưng hô thường ngày (anh/em) bằng cách gọi vợ là cô và tự xưng là tôi, ta có thể thấy ở người chồng ấy một thái độ không bình thường. Nếu đó không phải là một cách nói có sắc thái đùa bỡn, thì thường thường đó là dấu hiệu của một sự rạn nứt nào đó trong quan hệ gia đình. Tôi cũng có viết và nói một số bài về cái mà tôi coi là một tệ nạn khi một nhà báo chỉ vì lớn tuổi hơn người được phỏng vấn (một chiến sĩ hải đảo, một ngôi sao bóng đá, một hoa hậu, một nghệ sĩ lỗi lạc vừa được tặng một giải thưởng quốc tế đáng tự hào cho bất cứ dân tộc nào) mà tự thấy mình có quyền gọi người ấy bằng “em” hay bằng “cháu”. Và, lạ thay, người ấy cũng vui lòng chấp nhận cách xưng hô ấy và xưng em, xưng cháu với nhà báo, không hề nhớ mình là ai [2]. Tôi cũng đã tự hỏi xem liệu cách xưng hô “gia tộc chủ nghĩa” như thế có còn để lại một khe hở nào cho một quan hệ có tính chất dân chủ trong các cơ quan nữa không. Dù sao cũng không thể nào chấp nhận được thái độ kẻ cả của một người tự cho mình cái quyền gọi một công dân là em hay là cháu chỉ vì mình hơn người ta mười mấy tuổi. ngay trong nhà trường trung học (cấp hai) thời Pháp thuộc, tôi cũng chưa thấy một giáo viên nào dùng tu, toi (ngôi thứ hai số đơn) để gọi học sinh. Bao giờ giáo viên cũng gọi học sinh bằng vous (ngôi thứ hai số phức) như với người lớn. Thế mà ngày nay, ngay cả trong trường chuyên khoa (cấp ba) và cả trường đại học nữa, phần nhiều các giảng viên dám gọi học sinh, sinh viên bằng em. Cách xưng hô này không thể không đi đôi với một quan hệ bất bình đẳng và một thái độ bắt nạt có thể bị lạm dụng trong nhà trường, nơi lẽ ra có nhiệm vụ giáo dục ý thức công dân cho các thế hệ sau. Rốt cuộc tôi thấy cách xưng hô này rõ ràng là có hai mặt trái nhau, trong đó có mặt tiêu cực khó lòng có thể thua kém mặt tích cực về tỷ trọng: một mặt, nó có thể làm cho những người dưng nhích lại gần nhau hơn; còn một mặt khác, nó đưa đến một không khí gia tộc hoàn toàn nhân tạo trong những môi trường không cần đến không khí gia tộc, thậm chí không thể chấp nhận thứ không khí này, vì nó quá thuận lợi cho chủ nghĩa con cháu (nepotism) và cho những thái độ kẻ cả của người này và thái độ khúm núm, nịnh bợ của người kia. Về phương diện lịch sử, người ta dễ có xu hướng giải thích hiện tượng này bằng cái dĩ vãng phong kiến của dân tộc ta. Nhưng chế độ phong kiến đã từng tồn tại ở Trung Quốc, ở Nhật Bản và ở nhiều nước khác trong một thời gian dài hơn ở ta nhiều, mà sao trong ngôn ngữ của các nước này vẫn có được những cách xưng hô không bao hàm một mối quan hệ thân tộc nào, và do đó cũnng không bao hàm một sự bất bình đẳng nào? Hay đó là một phản ánh của một xã hội mà tế bào cơ bản là thị tộc? Tôi không đủ thẩm năng đệ phán đoán về vấn đề này. Dù sao cách xưng hô “không có đại từ trung hòa” này không phải không đẻ ra những vấn đề nan giải. Tôi trước đây đã từng làm phiên dịch trong một thời gian khá dài, và trong khi dịch những tác phẩm văn học cỡ lớn vẫn phải dành khá nhiều thì giờ ( có nhiều hơn cả thì giờ dành cho việc chuyển nghĩa) để nghĩ cách dùng đại từ sao cho khỏi rơi vào tình trạng lố bịch, và rốt cục phải thú nhận rằng trong rất nhiều trường hợp mình đã thất bại thảm hại. Quả nhiên khi viết bằng tiếng Việt không có cách gì có được một thái độ khách quan, trung lập đối với các nhân vật, nhất là trong những văn bản đòi hỏi một thái độ như thế. Chẳng hạn trong khi dịch Chiến tranh và Hoà bình, tập thể dịch giả đã phân vân rất nhiều trong khi đi tìm một thái độ hồi chỉ (“ngôi thứ ba”) thích hợp cho nhân vật Napoléon Bonaparte, vốn bị tác giả khinh miệt và chế riễu ra mặt. Tôi còn nhớ là giáo sư Đào Duy Anh cách đây 50 năm khi viết và giảng trên lớp giáo trình lịch sử Việt Nam đã thử dùng đại từ ngôi thứ ba nghỉ cho tất cả các nhân vật lịch sử, dù đó là Trần Hưng Đạo hay Toa Đô. Nhưng tôi và các bạn học hình như không ai thấy ổn, và cuối cùng hình như chính Giáo sư cũng đành từ bỏ cuộc thí nghiệm.